[Apply experience_Please help to share and tag your friends]_Patience and tenacity of purpose pay off
MỞ ĐẦU
Lúc đầu tôi không có ý định viết bài trên Hall of fame. Phần vì bản tính lười viết lách, chỉ thích tranh cãi một hai câu chứ không quen viết theo kiểu mở bài, thân bài, kết luận. Phần vì khi nhìn lại cả quá trình nộp hồ sơ, các bước thực hiện đều theo “sách” không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, vào cái thời điểm cuối tháng 5 này, khi còn 3 tháng trước ngày nhập học, tôi đã bắt đầu cảm nhận sức nóng của khối lượng công việc đang chờ mình trong 2 năm tới. Không viết lúc này thì đúng là chẳng còn lúc nào. Dù sao đi nữa, đối với tôi, việc nộp hồ sơ MBA thành công là một cột mốc quan trọng. Tôi muốn ghi lại quá trình này cho chính tôi, giúp tôi hiểu kĩ hơn về những đặc điểm của mình, những quyết định mà mình đã theo đuổi với hy vọng tôi có thể làm tốt trong các công việc tiếp theo. Tôi cũng muốn chia sẻ với mọi người nhất là với những bạn đang và sẽ có ý định học MBA. Mong rằng sẽ giúp các bạn có những thông tin cập nhật hơn. Sự thành công của tôi trong quá trình nộp hồ sơ đã phụ thuộc phần lớn vào những chia sẻ của những người đi trước.
CHUẨN BỊ HỒ SƠ
Đối với tôi chuẩn bị hồ sơ không phải là quá trình một năm hay hai năm. Mà thật sự đó là một quá trình dài hơi hơn thế. Chuẩn bị hồ sơ không chỉ là chuẩn bị những con số mà phải thật sự make yourself ready. Tôi rất ấn tượng những bạn trẻ có tham vọng, tự tin và luôn lập cho mình kế hoạch tỉ mỉ để thực hiện điều mình muốn. Rất nhiều bạn giờ mới học năm thứ nhất, thứ hai đại học nhưng đã chuẩn bị GMAT, tìm hiểu về MBA. Tôi nghĩ các bạn đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, đừng để tham vọng, sự tự tin của mình làm mất đi sự kiên nhẫn một yếu tố rất quan trọng cho một sự thành công bền vững.
1. Tiếng Anh căn bản
Tôi bắt đầu nghĩ về việc du học từ khi mới đỗ đại học. Tôi xác định cho mình sẽ theo đuổi cao học tại nước ngoài chứ không bỏ dở việc học trong nước để du học đại học. Lí do lớn nhất là tôi không tự tin về khả năng tiếng Anh của mình khi đấy. Tôi thi đại học khổi A mà bị dính một bệnh người ta gọi là “học lệch”. Tiếng Anh tốt nghiệp ở phổ thông tôi còn cực kì chật vật chứ đừng nói IELTS hay TOEFL. Tuy nhiên một kế hoạch nâng cấp Tiếng Anh tỉ mỉ đã giúp tôi phần nào cải thiện được cái điểm yếu đấy. Tôi cố bằng được để thi vào lớp học vượt tiếng Anh đầu tiên của Ngoại Thương hồi đó. Bắt đầu như một đứa tiếng Anh dốt nhất lớp nhưng do phải học với mấy bạn chuyên Anh từ bé nên mình không thể cam phận “đội sổ” mãi được. Để cải thiện khả năng nói của mình, đến năm thứ 2 tôi đăng kí đi thi public speaking của đại sứ quán Úc. Vụ này là do bạn gái thúc ép. Thế quái nào tôi lại được chọn để thi chung kết trước public, rồi cuối cùng cũng được một cái giải. Sau quá trình liên tục push bản thân như thế, tôi nhận thấy tôi đã học được rất nhiều. Trong giai đoạn chuẩn bị nhập học MBA này, tôi cũng đang cố gắng lặp lại cái cách tôi cải thiện Tiếng Anh Elementary của tôi hồi đại học đó. Hy vọng sau 3 tháng tôi sẽ tự tin hơn trong môi trường tiếng Anh native.
2. TOEFL
Tôi thi toefl tháng 5/2009. Tôi không thể dành nhiều thời gian vào Toefl vì tôi phải thi trong đúng giai đoạn bắt đầu công việc mới ở môi trường mới. Tôi thi Paper based cho nó nhanh.
3. GPA & GMAT
Hồi học đại học, tôi rất chú trọng đến GPA. Tôi nghe ngóng thế nào mà hiểu rằng GPA dưới 8.00 thì khỏi nghĩ đển học bổng master sau này. Về sau, mới biết là không extreme như thế. GPA không quan trọng trong hồ sơ (xếp sau GMAT và Toefl). Tuy nhiên, việc serious với GPA giúp tôi có một số cơ hội nhất định để tham gia nhiều hơn vào các hoạt động ở trường đại học cũng như của doanh nghiệp. Những cơ hội này thật sự có tác động đến việc chuẩn bị kĩ năng.
Câu chuyện GMAT của tôi thì loằng ngoằng hơn một tẹo. Trước đó tôi có một vài dịp thi GMAT bằng tiếng Việt, phần quant thôi, nên cũng biết phần quant rất doable với dân Việt Nam. Nhưng phần verbal thì đúng là khó hơn tôi tưởng tượng. Tôi còn nhớ buổi đầu tiên tôi đụng vào bài GMAT là buổi làm test với nhóm GMAT của vợ tôi (nhóm của Sơn, Hằng, Huy). Tôi đang loay hoay với câu verbal số 10 gì đấy thì mới ớ ra là đã hết giờ. Tôi lúc đấy còn nghĩ chắc tại mình chưa quen chứ làm gì mà khó thế. Tôi ôm cuốn OG10 một tuần rồi làm thử prep test luôn. Nhìn điểm số 630 tôi mới thấy nóng gáy thật sự. Thời gian lúc đó cũng không còn nhiều nữa (khoảng 3 tháng trước khi tôi rời Việt Nam) mà tôi lại muốn thi trước khi đi. Vậy là phải disciplined thôi.
Tôi lập cho mình kế hoạch ôn GMAT nghiêm túc hơn. Có 2 cuốn tôi ôn nhiều nhất là OG và 1000 câu verbal. Ngoài ra cũng phải recommend test set của GMAT Club. Các câu hỏi khó hơn thi thật một tí nhưng rất tốt để các bạn luyện cách manage thời gian và làm quen với một bài đầy đủ. Hồi đấy cứ đi làm về là ôm sách GMAT. Buổi trưa nghỉ ở công ty, in mấy trang verbal trong cuốn 1000 câu ra quán nước ngồi nhai vừa nhâm nhi ly cà phê. Ôi sao mà sung sướng!! Hồi luyện GMAT tôi gặp vấn đề về mất tập trung, không serious trong lúc làm test. Không hiểu tôi mắc cái chứng bệnh đấy từ khi nào. Cuối cùng tôi nghĩ ra cách dĩ độc trị độc: cuối tuần ra làm test trong quán cà phê, nhạc ầm ĩ, các bà các cô buôn chuyện xung quanh. Cách luyện công này xem ra cũng hiệu quả khi tôi làm được một số bài test kha khá để đi thi.
Tôi thi GMAT đầu tháng 2/2009 (ngay sau tết âm lịch). Không hiểu có phải do ăn bánh chưng nhiều quá không mà kết quả không được như ý lắm: 700 (Q49,V35). Cũng không dưới một lần tôi có ý định thi lại. Nhưng rồi do phải chuẩn bị di lý rồi phải settle down ở nơi mới nên đành thôi. Dành thời gian tập trung vào các phần khác trong hồ sơ.
4. Kinh nghiệm làm việc
Có lẽ đây là phần tôi chuẩn bị chu đáo nhất. Và cũng có lẽ vì thế mà tôi hơi neglect các test scores khác. Sau khi ra trường tôi làm kiểm toán. Nhưng tính tôi thích đi đây đó xa xa một chút nên tôi chuyển sang làm cho Maersk. Tôi đã rất may mắn, rất may mắn được vào chương trình rotation của Maersk. Bốn năm ở đây cho tôi rất nhiều thứ, cải thiện cả về khía cạnh công việc lẫn con người. Chia tay một môi trường tốt đã cho mình nhiều cơ hội như thế thật không phải là quyết định dễ dàng trên khía cạnh personal đối với những bạn đã gắn bó với công ty tương đối sâu sắc như tôi. Tuy nhiên, cuộc sống luôn vận động và tôi cũng hiểu rằng phải trau dồi thêm nhiều kĩ năng để tiếp tục theo đuổi ước mơ của mình.
5. Chọn trường
Tôi làm trong lĩnh vực transportation và supply chain nên cái tên đầu tiên tôi nghĩ đến là MIT. Đã có một giai đoạn tôi chỉ muốn nộp MIT và chỉ MIT mà thôi. Hơn nữa MIT cũng có quan hệ rất tốt với công ty của tôi, cùng cộng tác trong khá nhiều project liên quan đến supply chain. Tuy nhiên, quá trình tìm hiểu về trường, về MBA, và self-assessment đã thay đổi quyết đinh chọn trường của tôi. Tôi hiểu ra rằng tôi không muốn đi học MBA để quay lại industry mình đã làm trong 4 năm vốn đã có khá nhiều practical training. Tôi muốn sang industry mới mà ở đó các kĩ năng học được trong MBA sẽ cần thiết hơn. Tôi cũng muốn profile của mình rounded hơn hiện tại để giúp mình handle những thay đổi tốt hơn trong tương lai. Sau rất nhiều cân nhắc, cả trên khía cạnh sở thích, lẫn khả năng hoàn thành essay trong round 1, tôi quyết định đặt cửa Chicago Booth và Wharton. Cả hai trường này đều mạnh về finance. Đây cũng là một area mà tôi muốn bổ sung để trở nên rounded hơn. Giữa Chicago và Wharton tôi thật sự không thiên về trường nào và tự nhủ được bất kì trường nào đều tốt cả. Chicago có location tốt hơn. Nhưng Wharton có vẻ có các course non-finance tốt hơn một tẹo. Trong giây phút thả trí tưởng tượng bay xa (bệnh “đếm cua trong lỗ” này rất dễ mắc trong quá trình nộp hồ sơ ), tôi tự hỏi nếu được cả hai sẽ đi trường nào. Sau 4 năm làm ở Maersk, thời gian tôi được làm gần family thật quá ít ỏi. Quãng thời gian này giúp tôi hiểu cần phải balance giữa career và family thế nào. Ở Chicago, khả năng hai vợ chồng thăm nom nhau cũng tốt hơn (vợ tôi đang ở Minnesota). Đó là chưa kể sẽ thuận lợi hơn rất nhiều cho quá trình chạy đi chạy lại kiếm việc sau này.
6. Networking và Essays
Networking và essays là hai công việc phải làm song song với nhau sau khi đã hoàn thành các test scores và chọn trường vì hai việc này bổ trợ cho nhau rất tốt. Networking nên tập từ lúc apply đối với nhưng ai không phải là party boy/girl hay không có thói quen socialize với người lạ nhiều. Không nên chỉ coi Networking là required skills với MBA admit hay students mà đó là skills tối quan trọng với bất cứ ai làm business.
Networking đã giúp tôi tackle câu hỏi Why school như thế nào?
Tôi xin có một vài dòng riêng cho mục networking vì nó đóng một phần rất quan trọng trong kết quả apply của tôi. Hồi mới đến Rotterdam, tôi tự nhủ thế này là tiêu rồi. Ở nhà còn được bạn bè rủ đi đón đoàn sinh viên này đoàn sinh viên nọ chứ ở Hà Lan thì connect đâu có dễ. Mà mình lại lạ nước lạ cái. Deadline Round 1 thì sắp chỉ còn vài tháng nữa. Không may cho tôi, ở Hà Lan không có alum club của Wharton. Sau này tôi mới biết dân Wharton ở Hà Lan toàn dân expat, sau đợt khủng hoảng đã về nước hoặc chuyển đi nơi khác hết rồi. Sau khi cố gắng contact với một vài alum của Wharton mà không được, tôi tìm ra được một bác tốt nghiệp từ năm 80s. Cố gắng set up với bác ấy một cuộc nói chuyện mà cũng không thành vì bác ấy hỏi tôi có connect long term gì với Hà Lan không thì mới gặp. Nếu không thì sang nước khác connect. Sau này tôi mới hiểu là bác ấy rất bận và vì cũng upset vì dân Hà Lan đi Wharton mấy năm rồi ít quá nên bác ấy muốn dành resource cho những ai đi học rồi về tạo network ở Hà Lan. Tuy nhiên sau nhiều nỗ lực connect với trường tôi cũng có được 2 cuộc chat chít với 1 sinh viên và một cựu sinh viên nhân dịp họ về thăm nhà. Hai cuộc nói chuyện rất hữu ích giúp tôi cảm thấy connect với trường hơn.
Câu chuyện networking của tôi với Chicago thì hoàn toàn khác hẳn. Có thể nói là không thể thuận lợi hơn. Tôi nghĩ nó là cái duyên. Tôi tìm hiểu trên Alum club của Chicago hồi tháng 6. Thật may, đúng lúc đó có một dinner giữa alumni và một giáo sư dạy marketing của Chicago sang Tilburg hội thảo. May hơn nữa, sau này tôi mới biết đây là official event duy nhất trong năm open cho prospective students. Mục đích của tôi trong cuộc gặp này không chỉ là tìm hiểu thêm về trường mà còn muốn tạo một ấn tượng tích cực về bản thân mình vì tôi biết người phỏng vấn tôi sẽ có mặt ở đó. Một bữa tối rất thân mật cởi mở với alumni và giáo sư giúp tôi có cảm nhận rất tốt về Chicago và ready để có những personal thought của riêng mình khi trả lời câu hỏi Why Chicago? Sau bữa tối này, tôi vẫn duy trì connection tốt với những alumni mà tôi gặp. Đến khi phỏng vấn, interviewer đúng là một cậu trong số những alumni đó. Điều này giúp tôi tự tin hơn ít nhiều và handle buổi phỏng vấn tổt hơn. Trên thực tế, sau buổi phỏng vấn tôi rất tự tin về cơ hội vào Chicago.
Nói về networking thì cũng cần kể đến việc connect với các anh chị Việt Nam đã và đang học tại trường. Công việc này vô cũng thuận lợi vì anh Tài, chị Lê, anh Tường, anh Lân đều rất supportive. Tôi bắt đầu connect với các anh chị từ tầm tháng 5, tháng 6. Gửi hồ sơ hoàn chỉnh để mọi người comment trong tháng 8. Từ đó đến tháng 10 mọi người liên tục feedback và cho những lời khuyên rất hữu ích giúp tôi hoàn chỉnh nội dung. Đến khi được mời phỏng vấn, các anh chị và cả Cường nữa bắt đầu giúp tôi mock interview. Khi nhìn lại quá trình này, tôi tự nhận thấy mình đã chuẩn bị nghiêm túc để để xứng với sự nhiệt tình của mọi người. Bản essay đẩu tiên tôi gửi để các anh chị comment là bản tôi đã tự sửa ít nhất mười lần. Tôi tự đặt cho mình 1 requirement là chỉ nên yêu cầu mọi người xem cho một lần nên phải chuẩn bị thật kĩ. Dù sau đó các anh chị đểu offer nhiều hơn một lần review, nhưng tôi nghĩ đó là nguyên tắc để làm việc hiệu quả giữa mentor và mentee.
Bài học kinh nghiệm
Dù có một quá trình chuẩn bị essay khá nghiêm túc nhưng tôi không tránh khỏi mắc sai lầm. Sai lầm này cũng đến từ bản tính cứng đầu và có phần bảo thủ của tôi. Về mặt nội dung, essay cho cả hai trường Chicago và Wharton tôi đều làm tốt, cảm giác viết thoải mái và tự nhiên, phản ánh con người của mình. Tuy nhiên, essay, một khi đã tâm đắc, thì như đứa con dứt ruột đẻ ra, không muốn bỏ đi đoạn nào. Tôi mắc lỗi over word limit hơi nhiều nhất là đối với Wharton mặc dù đã được khuyến cáo. Tôi không chắc đó có phải là lí do tôi bị waitlist Wharton sau này hay không. Nếu đó là sự thật thì tôi rất tiếc vì công sức tôi bỏ vào essay của Wharton thật sự đáng kể. Tôi muốn note lại cái lỗi này ở đây để cho các bạn đi sau tránh. Đối với candidate goal là consulting như tôi mà không chịu cut to the chase để stay within the limit thì đó thật sự là một deadly mistake.
7. Acceptance, fellowship và loan
Cuộc chiến vẫn tiếp tục ngay cả khi bạn đã có admission của trường. Đó là cuộc chiến financial aid. Cam go không kém. Tôi hỏi kinh nghiệm của Cường về cách “mè nheo” scholarship/fellowship. Do tôi là Chicago Round 1 admit, nên việc xét fellowship của không có kết quả ngay vì các fellowship sẽ được quyết định vào Round 2. Điểm này có thể hơi khác với Wharton (xét corporate fellowship thường round 1). Thế nên, bạn nào apply Chicago năm sau không phải vội Round 1 đâu. Tôi có một khoản scholarship nho nhỏ từ Chicago sau khi được admit nhưng tôi vẫn hi vọng được thêm một chút. Anh Nam (tenchubv) giúp tôi liên hệ với một alum kì cựu trong advisory board của Chicago. Sau đó tôi có được nói chuyện với một alum kì cựu khác qua điện thọai. Tôi cố gắng sell kế hoạch của mình, biết đâu họ có thể put my name forward trong cuộc họp fellowship committee sau này. Vài tuần sau đến hạn tôi viết thêm cái essay, phỏng vấn thêm với một công ty consulting cho 1 corporate fellowship. Thật may, tôi được corporate fellowship đó, đỡ được một chút gánh nặng tiền nong và hy vọng sẽ thuận lợi hơn trong việc tạo mối quan hệ cho công việc mà mình muốn theo đuổi sau này.
Mặc dù vậy, học Chicago vẫn đồng nghĩa với việc take một khoảng loan lớn. Với tôi đó không phải là quyết định dễ dàng. Nhưng tôi nhớ lại câu chuyện deal với tiếng anh ngày xưa của mình. Tôi mong rằng khoản loan này sẽ không là trở ngại mà là động lực để tôi cố gắng phát triển kĩ năng và hoàn thiện bản thân hơn.
LỜI KẾT
Tôi xin tạm đặt theme cho bài viết này của tôi là sự kiên nhẫn, có mục tiêu và kế hoạch thực hiện mục tiêu rõ ràng sẽ mang đến thành công. In my case, patience and tenacity of purpose pay off!
Thành công trong quá trình apply của tôi nhờ vào sự giúp đỡ của rất nhiều người bạn. Tôi muốn nhân cơ hội này để gửi lời cám ơn đến: anh Tường, anh Lân, chị Lê, anh Tài, Cường, chị Chi, anh Nam, chị Ngân, chị Hường. Có người bạn tôi không nói lời cảm ơn trên open forum nhưng có ảnh hưởng rất nhiều đến tôi từ trước đến giờ.
PHỤ LỤC
Note lại mấy cái quick stats của tôi. Tôi cũng là thằng tò mò, cũng thích benchmark thế này thế kia. Đôi khi đọc stats cũng để biết mình cần fulfil điểm gì. Thế nên, dù stats vẫn chỉ là stats nhưng hy vọng vẫn có ích.
Age: Sắp 28
GPA: 8.3 Ngoại Thương
GMAT: 700 (Q49,V35), thi 1 lần
TOEFL: 610
Kinh nghiệm: 5 years in total: 1 year Auditor/Big four, 2.5 years Sales, Operations, Customer Service in Transportation/Logistics in Vietnam, 1.5 years Strategy, Product development in Rail transport in Europe.
your personal finance girl 在 Scholarship for Vietnamese students Facebook 的精選貼文
[Apply experience_Please help to share and tag your friends]_Patience and tenacity of purpose pay off
MỞ ĐẦU
Lúc đầu tôi không có ý định viết bài trên Hall of fame. Phần vì bản tính lười viết lách, chỉ thích tranh cãi một hai câu chứ không quen viết theo kiểu mở bài, thân bài, kết luận. Phần vì khi nhìn lại cả quá trình nộp hồ sơ, các bước thực hiện đều theo “sách” không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, vào cái thời điểm cuối tháng 5 này, khi còn 3 tháng trước ngày nhập học, tôi đã bắt đầu cảm nhận sức nóng của khối lượng công việc đang chờ mình trong 2 năm tới. Không viết lúc này thì đúng là chẳng còn lúc nào. Dù sao đi nữa, đối với tôi, việc nộp hồ sơ MBA thành công là một cột mốc quan trọng. Tôi muốn ghi lại quá trình này cho chính tôi, giúp tôi hiểu kĩ hơn về những đặc điểm của mình, những quyết định mà mình đã theo đuổi với hy vọng tôi có thể làm tốt trong các công việc tiếp theo. Tôi cũng muốn chia sẻ với mọi người nhất là với những bạn đang và sẽ có ý định học MBA. Mong rằng sẽ giúp các bạn có những thông tin cập nhật hơn. Sự thành công của tôi trong quá trình nộp hồ sơ đã phụ thuộc phần lớn vào những chia sẻ của những người đi trước.
CHUẨN BỊ HỒ SƠ
Đối với tôi chuẩn bị hồ sơ không phải là quá trình một năm hay hai năm. Mà thật sự đó là một quá trình dài hơi hơn thế. Chuẩn bị hồ sơ không chỉ là chuẩn bị những con số mà phải thật sự make yourself ready. Tôi rất ấn tượng những bạn trẻ có tham vọng, tự tin và luôn lập cho mình kế hoạch tỉ mỉ để thực hiện điều mình muốn. Rất nhiều bạn giờ mới học năm thứ nhất, thứ hai đại học nhưng đã chuẩn bị GMAT, tìm hiểu về MBA. Tôi nghĩ các bạn đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, đừng để tham vọng, sự tự tin của mình làm mất đi sự kiên nhẫn một yếu tố rất quan trọng cho một sự thành công bền vững.
1. Tiếng Anh căn bản
Tôi bắt đầu nghĩ về việc du học từ khi mới đỗ đại học. Tôi xác định cho mình sẽ theo đuổi cao học tại nước ngoài chứ không bỏ dở việc học trong nước để du học đại học. Lí do lớn nhất là tôi không tự tin về khả năng tiếng Anh của mình khi đấy. Tôi thi đại học khổi A mà bị dính một bệnh người ta gọi là “học lệch”. Tiếng Anh tốt nghiệp ở phổ thông tôi còn cực kì chật vật chứ đừng nói IELTS hay TOEFL. Tuy nhiên một kế hoạch nâng cấp Tiếng Anh tỉ mỉ đã giúp tôi phần nào cải thiện được cái điểm yếu đấy. Tôi cố bằng được để thi vào lớp học vượt tiếng Anh đầu tiên của Ngoại Thương hồi đó. Bắt đầu như một đứa tiếng Anh dốt nhất lớp nhưng do phải học với mấy bạn chuyên Anh từ bé nên mình không thể cam phận “đội sổ” mãi được. Để cải thiện khả năng nói của mình, đến năm thứ 2 tôi đăng kí đi thi public speaking của đại sứ quán Úc. Vụ này là do bạn gái thúc ép. Thế quái nào tôi lại được chọn để thi chung kết trước public, rồi cuối cùng cũng được một cái giải. Sau quá trình liên tục push bản thân như thế, tôi nhận thấy tôi đã học được rất nhiều. Trong giai đoạn chuẩn bị nhập học MBA này, tôi cũng đang cố gắng lặp lại cái cách tôi cải thiện Tiếng Anh Elementary của tôi hồi đại học đó. Hy vọng sau 3 tháng tôi sẽ tự tin hơn trong môi trường tiếng Anh native.
2. TOEFL
Tôi thi toefl tháng 5/2009. Tôi không thể dành nhiều thời gian vào Toefl vì tôi phải thi trong đúng giai đoạn bắt đầu công việc mới ở môi trường mới. Tôi thi Paper based cho nó nhanh.
3. GPA & GMAT
Hồi học đại học, tôi rất chú trọng đến GPA. Tôi nghe ngóng thế nào mà hiểu rằng GPA dưới 8.00 thì khỏi nghĩ đển học bổng master sau này. Về sau, mới biết là không extreme như thế. GPA không quan trọng trong hồ sơ (xếp sau GMAT và Toefl). Tuy nhiên, việc serious với GPA giúp tôi có một số cơ hội nhất định để tham gia nhiều hơn vào các hoạt động ở trường đại học cũng như của doanh nghiệp. Những cơ hội này thật sự có tác động đến việc chuẩn bị kĩ năng.
Câu chuyện GMAT của tôi thì loằng ngoằng hơn một tẹo. Trước đó tôi có một vài dịp thi GMAT bằng tiếng Việt, phần quant thôi, nên cũng biết phần quant rất doable với dân Việt Nam. Nhưng phần verbal thì đúng là khó hơn tôi tưởng tượng. Tôi còn nhớ buổi đầu tiên tôi đụng vào bài GMAT là buổi làm test với nhóm GMAT của vợ tôi (nhóm của Sơn, Hằng, Huy). Tôi đang loay hoay với câu verbal số 10 gì đấy thì mới ớ ra là đã hết giờ. Tôi lúc đấy còn nghĩ chắc tại mình chưa quen chứ làm gì mà khó thế. Tôi ôm cuốn OG10 một tuần rồi làm thử prep test luôn. Nhìn điểm số 630 tôi mới thấy nóng gáy thật sự. Thời gian lúc đó cũng không còn nhiều nữa (khoảng 3 tháng trước khi tôi rời Việt Nam) mà tôi lại muốn thi trước khi đi. Vậy là phải disciplined thôi.
Tôi lập cho mình kế hoạch ôn GMAT nghiêm túc hơn. Có 2 cuốn tôi ôn nhiều nhất là OG và 1000 câu verbal. Ngoài ra cũng phải recommend test set của GMAT Club. Các câu hỏi khó hơn thi thật một tí nhưng rất tốt để các bạn luyện cách manage thời gian và làm quen với một bài đầy đủ. Hồi đấy cứ đi làm về là ôm sách GMAT. Buổi trưa nghỉ ở công ty, in mấy trang verbal trong cuốn 1000 câu ra quán nước ngồi nhai vừa nhâm nhi ly cà phê. Ôi sao mà sung sướng!! Hồi luyện GMAT tôi gặp vấn đề về mất tập trung, không serious trong lúc làm test. Không hiểu tôi mắc cái chứng bệnh đấy từ khi nào. Cuối cùng tôi nghĩ ra cách dĩ độc trị độc: cuối tuần ra làm test trong quán cà phê, nhạc ầm ĩ, các bà các cô buôn chuyện xung quanh. Cách luyện công này xem ra cũng hiệu quả khi tôi làm được một số bài test kha khá để đi thi.
Tôi thi GMAT đầu tháng 2/2009 (ngay sau tết âm lịch). Không hiểu có phải do ăn bánh chưng nhiều quá không mà kết quả không được như ý lắm: 700 (Q49,V35). Cũng không dưới một lần tôi có ý định thi lại. Nhưng rồi do phải chuẩn bị di lý rồi phải settle down ở nơi mới nên đành thôi. Dành thời gian tập trung vào các phần khác trong hồ sơ.
4. Kinh nghiệm làm việc
Có lẽ đây là phần tôi chuẩn bị chu đáo nhất. Và cũng có lẽ vì thế mà tôi hơi neglect các test scores khác. Sau khi ra trường tôi làm kiểm toán. Nhưng tính tôi thích đi đây đó xa xa một chút nên tôi chuyển sang làm cho Maersk. Tôi đã rất may mắn, rất may mắn được vào chương trình rotation của Maersk. Bốn năm ở đây cho tôi rất nhiều thứ, cải thiện cả về khía cạnh công việc lẫn con người. Chia tay một môi trường tốt đã cho mình nhiều cơ hội như thế thật không phải là quyết định dễ dàng trên khía cạnh personal đối với những bạn đã gắn bó với công ty tương đối sâu sắc như tôi. Tuy nhiên, cuộc sống luôn vận động và tôi cũng hiểu rằng phải trau dồi thêm nhiều kĩ năng để tiếp tục theo đuổi ước mơ của mình.
5. Chọn trường
Tôi làm trong lĩnh vực transportation và supply chain nên cái tên đầu tiên tôi nghĩ đến là MIT. Đã có một giai đoạn tôi chỉ muốn nộp MIT và chỉ MIT mà thôi. Hơn nữa MIT cũng có quan hệ rất tốt với công ty của tôi, cùng cộng tác trong khá nhiều project liên quan đến supply chain. Tuy nhiên, quá trình tìm hiểu về trường, về MBA, và self-assessment đã thay đổi quyết đinh chọn trường của tôi. Tôi hiểu ra rằng tôi không muốn đi học MBA để quay lại industry mình đã làm trong 4 năm vốn đã có khá nhiều practical training. Tôi muốn sang industry mới mà ở đó các kĩ năng học được trong MBA sẽ cần thiết hơn. Tôi cũng muốn profile của mình rounded hơn hiện tại để giúp mình handle những thay đổi tốt hơn trong tương lai. Sau rất nhiều cân nhắc, cả trên khía cạnh sở thích, lẫn khả năng hoàn thành essay trong round 1, tôi quyết định đặt cửa Chicago Booth và Wharton. Cả hai trường này đều mạnh về finance. Đây cũng là một area mà tôi muốn bổ sung để trở nên rounded hơn. Giữa Chicago và Wharton tôi thật sự không thiên về trường nào và tự nhủ được bất kì trường nào đều tốt cả. Chicago có location tốt hơn. Nhưng Wharton có vẻ có các course non-finance tốt hơn một tẹo. Trong giây phút thả trí tưởng tượng bay xa (bệnh “đếm cua trong lỗ” này rất dễ mắc trong quá trình nộp hồ sơ ), tôi tự hỏi nếu được cả hai sẽ đi trường nào. Sau 4 năm làm ở Maersk, thời gian tôi được làm gần family thật quá ít ỏi. Quãng thời gian này giúp tôi hiểu cần phải balance giữa career và family thế nào. Ở Chicago, khả năng hai vợ chồng thăm nom nhau cũng tốt hơn (vợ tôi đang ở Minnesota). Đó là chưa kể sẽ thuận lợi hơn rất nhiều cho quá trình chạy đi chạy lại kiếm việc sau này.
6. Networking và Essays
Networking và essays là hai công việc phải làm song song với nhau sau khi đã hoàn thành các test scores và chọn trường vì hai việc này bổ trợ cho nhau rất tốt. Networking nên tập từ lúc apply đối với nhưng ai không phải là party boy/girl hay không có thói quen socialize với người lạ nhiều. Không nên chỉ coi Networking là required skills với MBA admit hay students mà đó là skills tối quan trọng với bất cứ ai làm business.
Networking đã giúp tôi tackle câu hỏi Why school như thế nào?
Tôi xin có một vài dòng riêng cho mục networking vì nó đóng một phần rất quan trọng trong kết quả apply của tôi. Hồi mới đến Rotterdam, tôi tự nhủ thế này là tiêu rồi. Ở nhà còn được bạn bè rủ đi đón đoàn sinh viên này đoàn sinh viên nọ chứ ở Hà Lan thì connect đâu có dễ. Mà mình lại lạ nước lạ cái. Deadline Round 1 thì sắp chỉ còn vài tháng nữa. Không may cho tôi, ở Hà Lan không có alum club của Wharton. Sau này tôi mới biết dân Wharton ở Hà Lan toàn dân expat, sau đợt khủng hoảng đã về nước hoặc chuyển đi nơi khác hết rồi. Sau khi cố gắng contact với một vài alum của Wharton mà không được, tôi tìm ra được một bác tốt nghiệp từ năm 80s. Cố gắng set up với bác ấy một cuộc nói chuyện mà cũng không thành vì bác ấy hỏi tôi có connect long term gì với Hà Lan không thì mới gặp. Nếu không thì sang nước khác connect. Sau này tôi mới hiểu là bác ấy rất bận và vì cũng upset vì dân Hà Lan đi Wharton mấy năm rồi ít quá nên bác ấy muốn dành resource cho những ai đi học rồi về tạo network ở Hà Lan. Tuy nhiên sau nhiều nỗ lực connect với trường tôi cũng có được 2 cuộc chat chít với 1 sinh viên và một cựu sinh viên nhân dịp họ về thăm nhà. Hai cuộc nói chuyện rất hữu ích giúp tôi cảm thấy connect với trường hơn.
Câu chuyện networking của tôi với Chicago thì hoàn toàn khác hẳn. Có thể nói là không thể thuận lợi hơn. Tôi nghĩ nó là cái duyên. Tôi tìm hiểu trên Alum club của Chicago hồi tháng 6. Thật may, đúng lúc đó có một dinner giữa alumni và một giáo sư dạy marketing của Chicago sang Tilburg hội thảo. May hơn nữa, sau này tôi mới biết đây là official event duy nhất trong năm open cho prospective students. Mục đích của tôi trong cuộc gặp này không chỉ là tìm hiểu thêm về trường mà còn muốn tạo một ấn tượng tích cực về bản thân mình vì tôi biết người phỏng vấn tôi sẽ có mặt ở đó. Một bữa tối rất thân mật cởi mở với alumni và giáo sư giúp tôi có cảm nhận rất tốt về Chicago và ready để có những personal thought của riêng mình khi trả lời câu hỏi Why Chicago? Sau bữa tối này, tôi vẫn duy trì connection tốt với những alumni mà tôi gặp. Đến khi phỏng vấn, interviewer đúng là một cậu trong số những alumni đó. Điều này giúp tôi tự tin hơn ít nhiều và handle buổi phỏng vấn tổt hơn. Trên thực tế, sau buổi phỏng vấn tôi rất tự tin về cơ hội vào Chicago.
Nói về networking thì cũng cần kể đến việc connect với các anh chị Việt Nam đã và đang học tại trường. Công việc này vô cũng thuận lợi vì anh Tài, chị Lê, anh Tường, anh Lân đều rất supportive. Tôi bắt đầu connect với các anh chị từ tầm tháng 5, tháng 6. Gửi hồ sơ hoàn chỉnh để mọi người comment trong tháng 8. Từ đó đến tháng 10 mọi người liên tục feedback và cho những lời khuyên rất hữu ích giúp tôi hoàn chỉnh nội dung. Đến khi được mời phỏng vấn, các anh chị và cả Cường nữa bắt đầu giúp tôi mock interview. Khi nhìn lại quá trình này, tôi tự nhận thấy mình đã chuẩn bị nghiêm túc để để xứng với sự nhiệt tình của mọi người. Bản essay đẩu tiên tôi gửi để các anh chị comment là bản tôi đã tự sửa ít nhất mười lần. Tôi tự đặt cho mình 1 requirement là chỉ nên yêu cầu mọi người xem cho một lần nên phải chuẩn bị thật kĩ. Dù sau đó các anh chị đểu offer nhiều hơn một lần review, nhưng tôi nghĩ đó là nguyên tắc để làm việc hiệu quả giữa mentor và mentee.
Bài học kinh nghiệm
Dù có một quá trình chuẩn bị essay khá nghiêm túc nhưng tôi không tránh khỏi mắc sai lầm. Sai lầm này cũng đến từ bản tính cứng đầu và có phần bảo thủ của tôi. Về mặt nội dung, essay cho cả hai trường Chicago và Wharton tôi đều làm tốt, cảm giác viết thoải mái và tự nhiên, phản ánh con người của mình. Tuy nhiên, essay, một khi đã tâm đắc, thì như đứa con dứt ruột đẻ ra, không muốn bỏ đi đoạn nào. Tôi mắc lỗi over word limit hơi nhiều nhất là đối với Wharton mặc dù đã được khuyến cáo. Tôi không chắc đó có phải là lí do tôi bị waitlist Wharton sau này hay không. Nếu đó là sự thật thì tôi rất tiếc vì công sức tôi bỏ vào essay của Wharton thật sự đáng kể. Tôi muốn note lại cái lỗi này ở đây để cho các bạn đi sau tránh. Đối với candidate goal là consulting như tôi mà không chịu cut to the chase để stay within the limit thì đó thật sự là một deadly mistake.
7. Acceptance, fellowship và loan
Cuộc chiến vẫn tiếp tục ngay cả khi bạn đã có admission của trường. Đó là cuộc chiến financial aid. Cam go không kém. Tôi hỏi kinh nghiệm của Cường về cách “mè nheo” scholarship/fellowship. Do tôi là Chicago Round 1 admit, nên việc xét fellowship của không có kết quả ngay vì các fellowship sẽ được quyết định vào Round 2. Điểm này có thể hơi khác với Wharton (xét corporate fellowship thường round 1). Thế nên, bạn nào apply Chicago năm sau không phải vội Round 1 đâu. Tôi có một khoản scholarship nho nhỏ từ Chicago sau khi được admit nhưng tôi vẫn hi vọng được thêm một chút. Anh Nam (tenchubv) giúp tôi liên hệ với một alum kì cựu trong advisory board của Chicago. Sau đó tôi có được nói chuyện với một alum kì cựu khác qua điện thọai. Tôi cố gắng sell kế hoạch của mình, biết đâu họ có thể put my name forward trong cuộc họp fellowship committee sau này. Vài tuần sau đến hạn tôi viết thêm cái essay, phỏng vấn thêm với một công ty consulting cho 1 corporate fellowship. Thật may, tôi được corporate fellowship đó, đỡ được một chút gánh nặng tiền nong và hy vọng sẽ thuận lợi hơn trong việc tạo mối quan hệ cho công việc mà mình muốn theo đuổi sau này.
Mặc dù vậy, học Chicago vẫn đồng nghĩa với việc take một khoảng loan lớn. Với tôi đó không phải là quyết định dễ dàng. Nhưng tôi nhớ lại câu chuyện deal với tiếng anh ngày xưa của mình. Tôi mong rằng khoản loan này sẽ không là trở ngại mà là động lực để tôi cố gắng phát triển kĩ năng và hoàn thiện bản thân hơn.
LỜI KẾT
Tôi xin tạm đặt theme cho bài viết này của tôi là sự kiên nhẫn, có mục tiêu và kế hoạch thực hiện mục tiêu rõ ràng sẽ mang đến thành công. In my case, patience and tenacity of purpose pay off!
Thành công trong quá trình apply của tôi nhờ vào sự giúp đỡ của rất nhiều người bạn. Tôi muốn nhân cơ hội này để gửi lời cám ơn đến: anh Tường, anh Lân, chị Lê, anh Tài, Cường, chị Chi, anh Nam, chị Ngân, chị Hường. Có người bạn tôi không nói lời cảm ơn trên open forum nhưng có ảnh hưởng rất nhiều đến tôi từ trước đến giờ.
PHỤ LỤC
Note lại mấy cái quick stats của tôi. Tôi cũng là thằng tò mò, cũng thích benchmark thế này thế kia. Đôi khi đọc stats cũng để biết mình cần fulfil điểm gì. Thế nên, dù stats vẫn chỉ là stats nhưng hy vọng vẫn có ích.
Age: Sắp 28
GPA: 8.3 Ngoại Thương
GMAT: 700 (Q49,V35), thi 1 lần
TOEFL: 610
Kinh nghiệm: 5 years in total: 1 year Auditor/Big four, 2.5 years Sales, Operations, Customer Service in Transportation/Logistics in Vietnam, 1.5 years Strategy, Product development in Rail transport in Europe.
your personal finance girl 在 江魔的魔界(Kong Keen Yung 江健勇) Facebook 的最佳貼文
反對黨中選定候選人楊美盈的一篇介紹自己的英文文章,從這篇文章可以看得出它的架構完全是依魅力故事學的角度來講。(也隱著Joseph Campbell英雄之旅的影子,連這個也講給你們聽,我已經夠慈悲了)。
細節不要問我,除非你是我的學生,就可以在秘密社團討論。
其餘的,若不是我的學生,可以報名 5 月 25 和· 26 日的 《江魔式毒辣NLP》
Entering into Politics - The Story Behind. By Yeo Bee Yin(杨美盈)
-----
"Why are you involved in politics?" I think this is the question my family members, friends, and many others will ask.
It's a long story. I am writing this story today to make sure that, if ever, I forget what am I in politics for, it will serve as a reminder.
Part I: The Beginning - Seed of Love
It all started in 2001 with my first Fast and Pray for Malaysia. Since then, I started to see Malaysia very differently and began to sow the seed of love for this nation. I remember I was only 18 years old then. Looking back now, I realized, I too, can be a part of the answered prayer. How marvellous.
Part II: Years on Distant Shores
No, I am not a super patriotic person that nothing else matters to me beside Malaysia. Being a 'kampung' girl, I dreamed of going overseas - to study, to work and to see the world.
Part II (a): Eyes Opened
My dream finally came true in my fourth year in UTP. I was offered a 6-month internship placement in BASF world biggest chemical site in Ludwigshafen, Germany. As a chemical engineering student, and being the first student in UTP to get the offer, it was indeed was a great blessing for me.
Internship in Germany was my first taste of international exposure as they take interns from all over the world to Germany. I spent countless of hours with some of these friends here discussing about just about anything under the sun.
In Germany, the church that I attended was Rhein River Baptist Church, which is a church of the American army who are based in Mannheim. I was one of the few non-military church members there. Through my interaction with the American armies, I began to understand what "Democracy", "Liberty" and "Patriotism" really mean.
During my stay in Germany, I also took the opportunity to travel to neighboring countries like France, Italy, Luxembourg and England. It was in these trips that changed my world view about culture, nation, development etc.
Before coming to Europe, as a top student, I thought I knew a lot. After I came here, I realized how little I knew about the world. I began to question why in Malaysia we did not learn a more complete world history, different political systems, different ideologies, arts and culture? Neither have we been taught to think critically and objectively. I began to realize that what we've been taught in the schools have been crafted in such a way that we can be easily manipulated if we are not careful. Our syllabus was (and still is) flawed and politically biased.
I have to admit that before coming to Germany, I was an ardent supporter of Dr Mahathir and his legacy. I read his book, watched his documentary, supported the blind protection of GLCs and race-based affirmative action, thinking that it's true 'patriotism'. (You can see how brain-washed I was then.)
Six months of internship in Germany has completely changed my world view , my eyes began to open, my previous perceptions shattered and I began to see things very differently. There is actually a much BETTER way for Malaysia.
I was 22 years old then.
Part II (b): A Disheartened Young Malaysian
After the internship, I came back to Malaysia to finish my study in UTP and graduated in 2006. Before I finished my study in UTP, I received offer from my dream university, Cambridge University, for a program called MPhil in `Advanced Chemical Engineering. I was so happy! So I started to apply for funding from various organizations. I didn't get any. Although disappointed, I wasn't blaming anybody as I understood that nobody was obliged to fund me. Despite financial difficulties in his business in 2006, my dad agreed to fund my study in Cambridge.
However, I still had one problem. I was bonded to Petronas for 10 years and was supposed to serve my bond after I finished my study in UTP. So I wrote to Petronas again to ask for deferment of service until after I finished my master degree in Cambridge. A few weeks later, I was called to come to the education unit. I really thought everything was gonna to be ok. There, I saw a nice guy, he told me that the program was great and he really wanted to help, but it was in the policy that they couldn't allow any deferment for the bond or I would have to pay up my bond in lump-sump. My dream crashed.
I did not blame Petronas for that, as they were just following the contract and it would be a havoc if every scholar would come and ask for deferment or for more funding. I understood that. However, it was a small incidence in the education unit that made me utterly disappointed with how things work in Malaysia. While waiting at the lounge, I met two returning scholars from Nottingham University, UK. I started to talk to them. After a while, an education unit guy came and met them, I accidentally saw their results - one of them get second class lower and the another one a third class. That blasted my mind. Here I was, with a CGPA of 3.95/4.00 begging only for 1 year of deferment, not even a scholarship, but was denied. Here they were, spent 4 years in the UK fully sponsored and yet graduated with mediocre results.
Am I not as much a Malaysian as them? Being a 23 years old, I was utterly disheartened and disappointed.
Part II (c): The Only Way out
It was just a few days after I came back from Petronas education unit that I received a call from an American oil and gas company informing me that I was recruited. How did I get the job? While searching for scholarships to Cambridge, I casually attended 5 stages of job interviews with this company as my mom advised me to go for job interview experience. The salary would allow me to pay up my Petronas bond in just a few months! Since the offer was great and there was no way that I could attend Cambridge anyway, I decided to take up the job.The company assigned me to Turkmenistan where I spent most of my next 2 years.
I was 24 years old when I left home for Turkmenistan and never thought I'll be back again. My plan was to climb up the corporate ladder and finally settle down in one of the developed countries.
Part II (c): When Money Rules
Being paid in a salary comparable to many general managers here in Malaysia, I managed to settle my bond with Petronas very quickly and saved some for myself. With the traveling allowances from the company, I traveled to many other countries too during the holidays. Life was great, I worked hard, played hard. Because of the good compensation scheme, I did not really think much about what I really want to do in life, my dream or my passion for the country. What I went after were money, bonus and performance. I became terribly self-centered.
I just didn't care anymore.
It was until 9th Mar 2008, when I opened The Star online and saw the news on the political tsunami that I realized how I still love and care about my country. They were just buried very deeply under my frustration and disappointment. How I wished I would be able to contribute to the change no matter how small the contribution was, instead of just seeing it as an outsider.
I began to question, why am I here? Is this really what I want to pursue? Do I do this because there's no more option? Do I do this just because of money? If I were born in the US with many other opportunities, would I still leave my home and do what I am doing now? How many more Malaysians out there left Malaysia because they went for better opportunities, just like myself and many other Malaysians abroad I've met throughout the years?
After more than half a year of consideration, I quit the job just months before my second promotion (when I still could resist the temptation). I wanted to be back to make a change to my nation, so that our next generation do not need to wander around the world for a better future, because the better future IS in Malaysia. I knew that I am a nobody and of me coming back would not help much, but I thought I should just do my part as a Malaysian, to serve our nation, regardless.
However, before I was back for good, I wanted to fulfill my childhood dream first, that was, to study in Cambridge University. I did not need to worry about my finance anymore now as I could afford to pay for everything. So I re-applied and got the admission offer within a month. A double blessing to me was that Cambridge Gates Scholarship, the most prestigious post-graduate scholarship in Cambridge University, also offered me a full scholarship! Everything was paid for including air tickets, living expenses and school fees! I was and always will be grateful for Bill and Merlinda Gates Foundation.
With that, I went to Cambridge University at the age of 27 years old, a long-delayed dream finally came true.
Part II (d): Living Cambridge Dream
My experience in Cambridge continued to make my burden for Malaysia even stronger. Throughout the year, I've met with many brilliant Malaysian students or working adults from top universities in the UK. I usually asked if they will one day be back to Malaysia. For those with JPA or Petronas bond, they said yes because no choice, whereas for those who are not bonded, almost 80% said No or they'll only be back to Malaysia if they can't find a job in UK, Europe or US. Malaysia has become the last resort. For the Gates scholars, it's even more dismal. Out of the 10 who have received the scholarships from 2001 to 2010 (unfortunately none received the scholarship in 2011 and 2012), I am the ONLY 1 who is back.
Where do many of the talented Malaysians go? There are all at the foreign land seeking for better opportunities and a better future. Can we blame them for not coming back? NO, absolutely NOT. Malaysia has just too little to offer them.
Part III: Hello Malaysian Politics
After pursuing my personal dream, as I've promised myself, I was finally back to Malaysia to pursue my dream for the country. Even with a strong burden for the country, it hadn't crossed my mind that I should be in politics, mainly because to me, being a politician was too far-fetch. I had no idea as in where to start, what to do, and which party to join. Also, I had been non-partisan all my life. What I thought I would do to make a change was probably community works and joining NGOs.
Until my company did a project with Democratic Action Party (DAP) in their general election social media campaign that I was exposed to politics first hand. I finally came to realization that if I want to make a good impact in this nation, with the limited things I have, it can only be done effectively through politics.
So joining politics? It was a tough decision, especially this year, only 1 year plus after I started my own business. I am not a person that go after fame and power, why bother to join politics? In addition, I am already 29 years old, isn't that better for me to find a husband and start a family? (God knows, when I was young I wanted to get married at 25!). Why waste time fighting for a job, of which I'll risk losing every 5 years and getting a pay that is not even half of what I used to get? Why bother to play the so called 'dirty politics'? As my mom has so rightly put it, "you can have a decent and comfortable life now, why choose such a hard life?".
However, what my mom did not know, is my love for this nation since I was 18 years old, and my desire to see a better Malaysia.
As I look back my life, by the grace of God, I was blessed with good and free education, MNC job training as well as so many different opportunities of international exposure. What I want to do now is really to be a faithful steward to the gifts of God and use them to bless my fellow Malaysians.
"For everyone to whom much given, of him shall much be required" Luke 12:48
So I've made up my mind to join politics.
Even after I've decided that I should join politics, I wasn't quite sure of which party to join. I was still a non-partisan by then. So I examined through the ideology, history and leadership of different parties, and had finally come to a conclusion that DAP is the best choice for me.
Ideologically, with years of European influences (though a The Economist reader), I have always been a social democrat, so it fits just well. Historically, DAP stood the test of time and never wavered in its principle. Finally, I think I can follow the leadership of DAP without worry because most of the time they make sense to me (unlike the other side) and most importantly, they uphold integrity and righteousness.
One setback of DAP to me was the party ethnicity-mix. It is still made-up of mostly Chinese and I am definitely not very into a race-based party. However, as I was involved in the Roketkini (DAP Malay news portal) Facebook page promotion, I could see the effort of DAP to reach out to Malay population and a genuine intention top down to make DAP a multiracial party. No party is perfect anyway. So I decided to join DAP and believe that through hard-work and time, we can build a true multiracial party together.
Part IV: Hope for the Future
So now, I am in politics and volunteering in DAP. What am I going to do for the next 20-30 years in politics?
Firstly, my heart is to use my gifts to serve the people regardless of income, race and religion. I believe politician is in fact public servant, we should always work towards maximizing the interest of the public.
For the long run, my hope for Malaysia is very simple. I hope that through the hard work of our generation, we'll make sure that Malaysia can be a land of opportunities and equality for our children. I hope that Malaysia can be a land where, no matter how big and what your dreams are, they can be fulfilled here; and no matter what your potential are, they can be reached here. I hope that our children, no matter where they are outside of Malaysia, they will so look forward to come back to Malaysia. I hope for a Malaysia that is free from corruption, united regardless or race and religion as well as competitive in the global economy.
And now, I shall work hard for it. May God bless the works of our hands.
-----
This is one of the articles summary of: www.yeobeeyin.com
Follow Yeo Bee Yin on Facebook at: https://www.facebook.com/yeobeeyin
----